Địa
Tạng là một vị Bồ-tát được tôn thờ trong Phật giáo Đông Á, thường được mô tả
như một tỉ-khâu phương Đông. Địa Tạng Bồ-tát được biết đến bởi lời nguyện cứu
độ tất cả chúng sinh trong lục đạo luân hồi vào thời kỳ sau khi Phật Thích-ca
Mâu-ni nhập Niết-bàn cho đến khi Bồ-tát Di Lặc hạ sanh, và nguyện không chứng
Phật quả nếu địa ngục chưa trống rỗng. Do đó, Địa Tạng thường được xem như là
vị Bồ-tát của chúng sanh dưới địa ngục hay là giáo chủ của cõi U Minh. Trong
văn hóa Nhật Bản, Địa Tạng là Bồ-tát hộ mệnh cho trẻ em, cũng như bảo vệ các
vong linh của trẻ em hoặc bào thai chết yểu. Địa Tạng thường được mô tả là một
tỉ-khâu trọc đầu với vầng hào quang, một tay cầm tích trượng để mở cửa
địa ngục, tay kia cầm ngọc Như Ý tượng trưng cho ánh sáng xua tan bóng
đêm.Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát được xây dựng trên ngọn đồi Kim Quy với chiều
cao 12m. Một số thông tin khác về Địa Tạng Vương Bồ Tát
Theo
niềm tin tưởng rất lâu đời của Phật tử Nhật Bản kể từ thời Trung cổ thì Bồ Tát
Địa Tạng rất thương yêu trẻ con và vì thế Ngài là vị Bồ Tát có một sứ mệnh rất
đặc biệt là bảo vệ trẻ con. Chính vì vậy mà đa phần những hình tượng Bồ Tát Địa
Tạng tại Nhật Bản đều mang một khuôn mặt trẻ thơ rất đáng yêu. Trong các quốc
gia theo truyền thống Phật giáo Đại thừa như Trung Hoa, Triều Tiên, Việt Nam,
v.v.. chỉ có Nhật Bản là có truyền thống độc đáo này. Người ta không biết rõ
niềm tin này được phát xuất từ đâu, có thể là bắt nguồn từ cuốn Kinh Địa Tạng
Bổn Nguyện. Theo một phẩm ở trong cuốn Kinh này thì vị quỉ thần trách nhiệm về
sinh mệnh và tuổi thọ của con người, Chủ Mạng Quỉ Vương, cũng là một vị Bồ Tát
do lòng từ hóa hiện, trong khi cùng với các vua Diêm La câu hội về cung trời
Đao Lợi để nghe Phật thuyết pháp, đã bạch Phật:
“Người
trong cõi Diêm Phù Đề lúc mới sanh, không luận là con trai hay con gái, khi sắp
sanh ra chỉ nên làm việc phước lành thêm sự lợi ích cho nhà cửa, thời Thổ Địa
vui mừng khôn xiết, ủng hộ cả mẹ lẫn con đều đặng nhiều sự an vui, hàng
thân quyến cũng được phước lợi. Hoặc khi đã hạ sanh rồi, nên cẩn thận chớ có
giết hại sanh vật để lấy những vị tươi ngon cung cấp cho người sản mẫu ăn, cùng
nhóm họp cả cả hàng quyến thuộc lại để uống rượu ăn thịt, ca xang đờn sáo, nếu
làm những việc trên đó có thể làm cho người mẹ đứa con chẳng đặng an vui.”
Trong
một đoạn kinh khác, khi tán thán về công năng và oai lực của Bồ Tát Địa Tạng,
Phật đã tuyên thuyết cùng Bồ tát Phổ Quảng:
“Lại
vầy nữa, nầy Phổ Quảng! Về trong thuở về sau này , nơi cõi Diêm Phù Đề, trong
hàng Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Trưởng Giả, Cư Sĩ, tất cả các hạng người, và những
dân tộc giòng họ khác, như có người nào mới sanh đẻ hoặc con trai hoặc con gái,
nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ mới sanh đó mà tụng kinh điển không thể nghĩ
bàn này, lại vì đứa trẻ mà niệm danh hiệu của Ngài Địa Tạng Bồ Tát đủ một muôn
biến. Được vậy thời đứa trẻ hoặc trai hay là gái mới sanh ra đó, nếu đời trước
nó có gây ra tội vạ chi cũng đặng thoát khỏi cả, nó sẽ an ổn vui vẻ dễ nuôi,
lại thêm được sống lâu. Còn như nó là đứa nương nơi phước lực mà thọ sanh, thời
đời nó càng được an vui hơn cùng sống lâu hơn.”
Chăm
lo cho hạnh phúc trẻ thơ chưa đủ, Bồ Tát Địa Tạng còn chăm lo đến số phận của
những trẻ thơ bất hạnh đã lìa đời ngay lúc còn thơ ấu, hoặc vì lý do nào đó đã
chết khi đang còn là một bào thai ở trong bụng mẹ. Chết yểu, theo quan niệm của
người Á Đông là một điều bất hạnh. Càng bất hạnh hơn nữa theo quan điểm Phật
giáo là vì trẻ thơ chưa có ý niệm về sự sống, chết; thế nên trong giai đoạn thân
trung ấm, thần thức của chúng vẫn còn lảng vảng chung quanh những người thân
yêu như cha mẹ anh chị em, không chịu rời bỏ căn phòng và ngôi nhà mà chúng đã
từng sinh sống. Hàng ngày chúng tiếp xúc với họ, nói chuyện với họ và cảm thấy
rất đau khổ vì những người thân yêu này hầu như không ai nghe lời chúng, không
có vẻ gì quan tâm đến chúng cả. Chúng thật là cô đơn, buồn tủi và rất đáng tội
nghiệp. Chúng ta đừng vội nghĩ một cách đơn giản rằng vì trẻ con ngây thơ trong
trắng, trong đời chúng chưa hề gây ra một ác nghiệp nào nên khi chết là có thể
được sanh về những cảnh giới tốt đẹp. Sự thật không phải như vậy. Điều này đã
được Đức Thế Tôn giải thích một cách khá rõ ràng khi phản bác lập luận của một
người ngoại đạo cho rằng, nếu một người nào đó, thân không làm những điều xấu
ác, miệng không thốt những lời cay độc, không có những tác ý xấu xa, không kiếm
sống bằng những nghề bất lương, người đó như thế đã hoàn tất những nỗ lực
tu tập tinh thần cần thiết và trở thành một bậc thánh, một bậc giác ngộ trong
kiếp sống này. Đức Thế tôn đã phản bác rằng:
“Một
hài nhi còn nằm ngữa chưa hề có ý niệm thế nào là “thân” làm sao chúng có
thể có những hành động xấu ác khi thân chỉ biết bò và lật? Một hài nhi còn nằm
ngữa ngay cả còn chưa biết “nói chuyện” thì làm sao có thể thốt ra được những
lời cay độc khi miệng chỉ biết khóc nhè?... [Chúng] không hề có ý niệm thế nào
là “tác ý” thì làm sao có thể có những tác ý xấu xa? [Chúng] không hề có
ý niệm thế nào là “nghề nghiệp sinh sống” thì làm sao chúng có thể hành nghề bất
lương để kiếm sống ngoại trừ rúc vào vú mẹ? Nếu [tất cả những gì mà ông nói]
như thế, thì một đứa hài nhi còn nằm ngữa là một bậc thánh, và là [một bậc giác
ngộ].
Như
thế những linh hồn trẻ thơ này sẽ đi về đâu trong và sau giai đoạn thân trung
ấm và Bồ Tát Địa Tạng làm thế nào để cứu giúp chúng?
Một bức tranh minh họa trong truyện Bên
bờ Nại Hà
Theo sự tin tưởng của người Phật tử Nhật Bản, lứa tuổi
trẻ con vì trí óc còn non nớt chưa phát triển nên không thể phân biệt được phải
trái cũng như không thể thấu hiểu được những giáo lý của đạo Phật. Dĩ nhiên vì
không thông hiểu giáo lý, chúng không thể tu tập để đạt đến giác ngộ -như đoạn
kinh Phật đã giải thích ở trên- vì thế nên tuy ngây thơ vô tội, sau khi từ giả
cõi đời chúng không thể sanh vào cảnh giới Phật, kể cả cảnh giới Tịnh Độ. Ngược
lại chúng bị rơi vào cõi u minh mờ mịt. Huyền thoại Á Đông thường đề cập đến
một giòng sông mà người chết trong giai đoạn thân trung ấm cần phải vượt qua,
đó là sông Nại hà.
Theo truyền thuyết của Nhật Bản, những trẻ con yểu tử sau khi chết đều tụ tập ở bên bờ sông này. Do lòng thương nhớ khôn nguôi đến những người thân yêu, tại đây chúng nhặt những hòn đá cuội sắp xếp thành những ngôi nhà để tưởng nhớ đến cha mẹ, anh chị em. Khi hoàn tất xong một cái, chúng bảo rằng: “Cái nhà này là của mẹ, người bảo bọc tôi. Cái nhà này là của cha, người nắm tay tôi dẫn dắt tôi trên đường đời. Cái này là của anh, chị, em tôi...”
Một số huyền thoại cho rằng chính trong lúc này Bồ Tát Địa Tạng đã hiện ra để chơi với chúng, khuyến khích, tiếp tay xây dựng những ngôi nhà trẻ con này hầu giúp chúng tích lũy công đức để nhờ đó có thể vượt qua giòng sông Nại hà, trong khi chờ đợi chúng lớn khôn với đầy đủ trí phán đoán để có thể đi đầu thai sang kiếp khác. Tuy nhiên trong số những truyền thuyết này, cũng có chuyện đã kể lại một cách thương tâm và ghê rợn hơn. Truyện mô tả là không khí bên bờ sông Nại hà rất là đìu hiu và thê lương, trẻ con thì không ngớt khóc than vì không còn cha mẹ để nương tựa, bám víu. Trong lúc này một mụ phù thuỷ độc ác tên là Datsuba với một con mắt cháy đỏ hung dữ hiện ra, lột hết áo quần của tất cả bọn chúng treo lên cành cây. Mụ không ngớt nguyền rủa chúng là do chết yểu nên chúng đã không hoàn tất bổn phận của người con là phải săn sóc, giúp đỡ cha mẹ lúc cha mẹ già yếu. Để bù lại, mỗi ngày mụ bắt chúng phải ở trần truồng xây những căn nhà bằng đá cuội như là một sự trừng phạt. Nhưng rồi cứ mỗi buổi chiều tối, khi những căn nhà đã sắp hoàn thành xong thì một bầy quỉ hung ác khác, đầu sừng răng nanh hiện ra, dùng gậy sắt đập phá hết tất cả những công trình xây dựng của bọn trẻ, miệng không ngừng la lối nạt nộ: “Khốn nạn cho tụi bây chết trước cha mẹ! Tụi bây đâu đã biết cầu nguyện là gì!!”
Chính lúc này thì Bồ Tát Địa Tạng hiện ra và bọn trẻ trong lúc đang kinh hoàng vội vàng chạy đến chui vào tăng bào của Ngài để tìm chỗ ẩn trốn. Những đứa nhỏ
hơn vì chạy không kịp đến trễ thì vội đeo vào cánh tay hay thiền trượng
của Ngài. Bồ Tát Địa Tạng liền an ủi vỗ về chúng: “Không có gì các con phải sợ
hãi cả. Từ đây ta là Mẹ là Cha của các con.” Bọn quỉ đã xúm lại đòi Bồ Tát Địa
Tạng phải trao đám trẻ con lại cho chúng, nhưng Ngài đã dùng uy lực của mình
phóng ra những vầng hào quang rực rỡ khiến bọn chúng đều khiếp sợ bỏ đi. Huyền
thoại này của người Nhật đã mô tả lại những nỗi khổ đau mà ngay cả một đứa trẻ
nhỏ bé ngây thơ vô tội cũng phải gánh chịu ở thế giới bên kia và chỉ có Bồ Tát
Địa Tạng là người duy nhất đã cứu vớt những linh hồn bé nhỏ đó
Theo truyền thuyết của Nhật Bản, những trẻ con yểu tử sau khi chết đều tụ tập ở bên bờ sông này. Do lòng thương nhớ khôn nguôi đến những người thân yêu, tại đây chúng nhặt những hòn đá cuội sắp xếp thành những ngôi nhà để tưởng nhớ đến cha mẹ, anh chị em. Khi hoàn tất xong một cái, chúng bảo rằng: “Cái nhà này là của mẹ, người bảo bọc tôi. Cái nhà này là của cha, người nắm tay tôi dẫn dắt tôi trên đường đời. Cái này là của anh, chị, em tôi...”
Một số huyền thoại cho rằng chính trong lúc này Bồ Tát Địa Tạng đã hiện ra để chơi với chúng, khuyến khích, tiếp tay xây dựng những ngôi nhà trẻ con này hầu giúp chúng tích lũy công đức để nhờ đó có thể vượt qua giòng sông Nại hà, trong khi chờ đợi chúng lớn khôn với đầy đủ trí phán đoán để có thể đi đầu thai sang kiếp khác. Tuy nhiên trong số những truyền thuyết này, cũng có chuyện đã kể lại một cách thương tâm và ghê rợn hơn. Truyện mô tả là không khí bên bờ sông Nại hà rất là đìu hiu và thê lương, trẻ con thì không ngớt khóc than vì không còn cha mẹ để nương tựa, bám víu. Trong lúc này một mụ phù thuỷ độc ác tên là Datsuba với một con mắt cháy đỏ hung dữ hiện ra, lột hết áo quần của tất cả bọn chúng treo lên cành cây. Mụ không ngớt nguyền rủa chúng là do chết yểu nên chúng đã không hoàn tất bổn phận của người con là phải săn sóc, giúp đỡ cha mẹ lúc cha mẹ già yếu. Để bù lại, mỗi ngày mụ bắt chúng phải ở trần truồng xây những căn nhà bằng đá cuội như là một sự trừng phạt. Nhưng rồi cứ mỗi buổi chiều tối, khi những căn nhà đã sắp hoàn thành xong thì một bầy quỉ hung ác khác, đầu sừng răng nanh hiện ra, dùng gậy sắt đập phá hết tất cả những công trình xây dựng của bọn trẻ, miệng không ngừng la lối nạt nộ: “Khốn nạn cho tụi bây chết trước cha mẹ! Tụi bây đâu đã biết cầu nguyện là gì!!”
Bổn tích Địa Tạng Vương Bồ Tát |
Tượng Địa Tạng Vương Bồ Tát được xây dựng tại vị trí trang trọng ở chính giữa ngọn đồi Kim Quy trong dự án Thiên Đức Vĩnh Hằng Viên với chiều cao 12m, nằm giữa trục Thần Đạo, hai bên đặt 500 bức tượng La Hán được thiết kế tinh xảo, đứng trang nghiêm, bảo vệ và phổ độ các vong linh trong toàn thể dự án
Tượng Địa Tạng Vương cao 12m |
0 nhận xét: